Diễn biến Chiến_tranh_cục_bộ_(Chiến_tranh_Việt_Nam)

Thực hiện những quyết định trong Bị vong lục 328 – NSAM, ngày 10-4-1965, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ 2/3 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3) đổ bộ vào Đà Nẵng, hai đại đội của tiểu đoàn này được máy bay lên thẳng chuyển đến Phú Bài. Ngày 14-4, các tốp máy bay đầu tiên của phi đội máy bay hải quân 551 hạ cánh xuống Đà Nẵng và tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3/4 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 4), tới Phú Bài để thay thế cho các đại đội của tiểu đoàn 2/3. Từ ngày 3 đến ngày 5-5, Lữ đoàn 9 được tăng thêm ba tiểu đoàn đổ bộ lên Chu Lai.

Ngày 1-5-1965, tướng Westmoreland trình lên Nhà Trắng kế hoạch chiến lược ba giai đoạn gọi là Chương trình hợp tác gồm ba nội dung tảo thanh, bảo đảm an ninh, Tìm và diệt.[6]

- Giai đoạn 1: Từ tháng 7-1965 đến tháng 12-1965 đưa nhanh quân Mỹ và quân đánh thuê vào miền Nam để ngăn chặn chiều hướng sụp đổ của chế độ Sài Gòn, bảo đảm an toàn cho những khu vực đông dân cư, gấp rút triển khai lực lượng chuẩn bị cho cuộc phản công giành lại quyền chủ động chiến trường.

- Giai đoạn 2: Từ đầu năm 1966 đến tháng 6-1966, quân Mỹ và lực lượng "đồng minh" mở các cuộc hành quân tìm diệt ở những khu vực ưu tiên đã được xác định, tiêu diệt lực lượng chủ lực Quân giải phóng, phá các căn cứ du kích, hỗ trợ cho chương trình bình định.

- Giai đoạn 3: Từ tháng 7-1966 đến giữa hoặc cuối 1967, toàn bộ lực lượng phe Mỹ mở các cuộc hành quân tiến công tiêu diệt các lực lượng còn lại của Quân giải phóng và các khu căn cứ du kích, hoàn thành về cơ bản chương trình bình định.

Bom napalm được Mỹ ném xuống một ngôi làng

Quyết giành thắng lợi bằng quân sự, Mỹ đã đẩy nhanh việc đưa ồ ạt quân Mỹ, quân các nước đồng minh với Mỹ vào miền Nam. Từ tháng 7 đến cuối năm 1965, các Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận 1, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn Kị binh không vận 101 (Thiên thần mũ đỏ), Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11… cùng hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại ùn ùn đổ vào miền Nam Việt Nam. Hạm đội 7 - hạm đội hùng hậu nhất của Hải quân Mỹ được mệnh danh "chúa tể đại dương" trước kia hướng hoạt động ở Đông Bắc Á, nay tập trung hướng hoạt động vào vùng biển Đông Nam Á mà trọng điểm là Việt Nam, cùng hàng vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philíppin, đảo Okinawa, đảo Guam... đều được sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Lực lượng đánh thuê có quân số 20.500 gồm Sư đoàn bộ binh Mãnh hổ, Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ Rồng xanh Hàn Quốc, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng gia Australia, Trung đoàn Thái Lan, Đại đội pháo binh New Zealand. Tây Ban Nha, Đài Loan cũng đưa sang Nam Việt Nam 43 cố vấn quân sự và chuyên gia giúp Mỹ. Quân đội Sài Gòn có 520.000 quân, biên chế thành 10 sư đoàn và 5 trung đoàn.

Với lực lượng đông, tinh nhuệ và hiện đại, Vecler - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara "không có lý do gì chúng ta (Mỹ) lại không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta"[6]. Những nhân vật "diều hâu" trong giới cầm quyền Mỹ tin tưởng tuyệt đối rằng "cùng lắm trong vòng 18 tháng (cuối 1966), Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt cộng và Hà Nội sẽ phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta (Mỹ) sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc khởi nghĩa nào cũng có thể bị tiêu diệt"[7]

Đối sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Một gia đình sống và chiến đấu trong Địa đạo Vịnh Mốc

Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng nước Mỹ giàu, quân Mỹ mạnh, trang bị hiện đại, nhưng Mỹ vào miền Nam "trong hoàn cảnh quân đội Sài Gòn đã thua trận, chính quyền tay sai rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, chúng mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng cách mạng đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược."[8]

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa củng cố đường Trường Sơn và đã chuyển được một lượng khổng lồ khí tài chiến tranh, nhân lực vào chiến trường. Lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng phát triển cân đối và lớn mạnh vượt bậc so với những năm đầu chiến tranh. Năm 1964, lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam (chỉ tính riêng bộ đội chủ lực) có 11 trung đoàn và 15 tiểu đoàn; đến cuối năm 1965 đã phát triển lên 5 sư đoàn và 11 trung đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn binh chủng kỹ thuật. Lực lượng đặc công, biệt động là binh chủng đặc biệt tinh nhuệ, từ những đội, những tổ hoạt động nhỏ lẻ trên các chiến trường, tiếp tục phát triển thành nhiều trung đoàn, tiểu đoàn, đội đặc công, trong đó có sư đoàn đặc công 100 gồm chín đội đặc công Nam Bộ hợp thành... Ở khu 5, Tây Nguyên, Trị - Thiên, các tiểu đoàn đặc công 406, 407, 408, 409, 487... là những đơn vị dạn dày kinh nghiệm đánh hậu cứ địch. Tất cả các lực lượng chính quy đều trang bị súng AK-47, loại súng trường cá nhân mang tính chiến lược.

Theo người cộng sản, chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà Trắng, Lầu Năm góc Mỹ không thể nào khắc phục được. Đó là[9]:

- Mâu thuẫn giữa mục đích muốn giấu mặt trá hình để áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh bằng quân viễn chinh Mỹ, nên nhanh chóng bị lộ mặt.

- Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng phải xây dựng cho được chính quyền, quân đội tay sai bản xứ làm chỗ dựa và là công cụ của Mỹ nhằm áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

- Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chính quyền, quân đội tay sai với thực tế càng tiến hành chiến tranh thì chính quyền, quân đội đó càng lục đục, suy yếu, lệ thuộc Mỹ, đồng thời kéo theo sự suy yếu của chính bản thân Mỹ.

- Mâu thuẫn giữa sức mạnh quân sự vốn có, nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nên Mỹ không thể sử dụng hết sức mạnh quân sự của bản thân trong cuộc chiến tranh cách xa nước Mỹ.

vì vậy, phương châm đấu tranh được đề ra là: đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công Quân sự-Chính trị-Ngoại giao.[9]

Ngày 20-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi: "Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn".[10] Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế..."[11]

Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất họp tài Lò Gò, phía tây bắc tỉnh Tây Ninh từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát động phong trào thi đua Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương nêu quyết tâm Cứ đánh Mỹ sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ.

Năm mở màn 1965

Phát hiện được đơn vị chủ lực (có trang bị hạng nặng) Quân Giải phóng ở cách Chu Lai 17 km về phía đông nam. Westmoreland ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân mang tên Ánh sáng sao (Starlite) đánh vào Vạn Tường, nhằm tiêu diệt Trung đoàn 1 Quân giải phóng, gây uy thế cho quân Mỹ. Đêm 17-8-1965, năm tàu chiến và sáu tàu đổ bộ Mỹ đậu ngoài biển đối diện với ấp An Cường, bắn dồn dập hàng ngàn quả đạn đại bác vào các thôn xóm. Mờ sáng 18-8-1965, Mĩ huy động 9.000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường. Sau một ngày đêm chiến đấu, trung đoàn chủ lực của Quân giải phóng cùng quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của Mĩ, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay. Đêm 18 rạng 19 lực lượng chính quy của quân Giải phóng bí mật rút khỏi Vạn Tường.

Máy bay Mỹ rải chất hóa học xuống miền Nam

Mặc dù chịu đựng nhiều tổn thất về sinh mạng, song Chiến thắng Vạn Tường chứng minh rằng quân Giải phóng hoàn toàn có khả năng đánh bại quân đội Mỹ trong điều kiện địch có ưu thế về binh, hoả lực và sức cơ động. Thông tin trực tiếp về thực lực của quân đội Mỹ được phổ biến rộng cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Trận Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam.

Sau trận thắng ở Vạn Tường, quân Giải phóng rút kinh nghiệm từ bỏ tham vọng tiêu diệt sinh lực đối phương ở cấp trung đoàn, mà từ quy mô tiểu đoàn trở xuống, chỉ mở chiến dịch cấp trung đoàn trở lên khi cần thiết để đảm bảo hiệu suất. Họ tăng cường tiến công quân Mỹ ở Thuận Ninh (18-9), Cát Sơn, Cát Hiệp (10 và 14- 10) thuộc tỉnh Bình Định; bắn pháo vào sân bay Đà Nẵng, Chu Lai (24-10) phá huỷ, phá hỏng 163 máy bay các loại, diệt nhiều lính Mỹ.

Ngày 19-10-1965, Quân giải phóng Tây Nguyên mở chiến dịch Plâyme, cách thị xã Plâycu khoảng 30 km về phía tây nam. Không gian chiến dịch diễn ra trong tứ giác Pleime - Bầu Cạn - Đức Cơ - Plây Thê thuộc huyện 5, nay là huyện Chư Prông với diện tích 1.200 km².

Kết thúc chiến dịch Plâyme, quân Giải phóng tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân lực Việt Nam Cộng hòa, phá huỷ 89 xe quân sự, tiêu diệt Tiểu đoàn 2/7, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 1/7 kỵ binh bay Mỹ; bắn rơi, phá hỏng 59 máy bay lên thẳng. Phía Mỹ xác nhận trong trận Ia Đrăng có 824 lính Mỹ bị thương, trong đó có 304 chết. Tướng Mỹ G. Moore và L. Galoway phóng viên chiến tranh, đã chiến đấu trong trận Ia Đrăng sau này nhận định rằng: "Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam".[12]

Sau năm 1965, khả năng chiến thắng Mĩ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và dân Việt Nam tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô[5]

Bước vào mùa khô thứ nhất

Mùa khô đến là điều kiện hết sức thuận lợi trong việc sử dụng hoả lực có phối hợp của không quân, hải quân, pháo binhxe tăng, mà những thứ vũ khí hiện đại này chỉ quân Mỹ mới có, nên Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn ráo riết chuẩn bị, triển khai lực lượng trên các hướng, sẵn sàng tiến công ồ ạt và bất ngờ trên diện rộng, cụ thể hoá thành năm điểm:

- Tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân Giải phóng giành lại chủ động trên chiến trường, buộc đối phương phải phân tán, do đó không đủ khả năng đánh lớn.
- Bình định có trọng điểm, giành dân, đánh phá hậu cần dự trữ.
- Ổn định tình hình chính trị, củng cố quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
- Khai thông các hệ thống giao thông giữa các vùng chúng kiểm soát với nhau.
- Đánh phá miền Bắc, cô lập miền Nam.

Đông - xuân 1965-1966, với 72 vạn quân (trong đó có 22 vạn quân Mĩ, còn lại là quân đồng minh và quân lực Việt Nam Cộng hòa), gồm 14 sư đoàn, 9 lữ đoàn và trung đoàn bộ binh Mỹ, Việt Nam Cộng hòa và các nước phụ thuộc Mỹ, hơn 1.000 khẩu đại bác, 1.342 xe tăng, xe bọc thép, 2.288 máy bay các loại, 541 tàu, xuồng chiến đấu. Mỹ mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và khu V[13], gọi là "chiến dịch Năm mũi tên". Mục tiêu đánh bại quân chủ lực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Trên hướng thứ nhất, Củ Chi là trọng điểm, địch mở cuộc hành quân "Cái bẫy" nhằm diệt cơ quan đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định và triệt hạ vùng giải phóng Củ Chi. Trong cuộc hành quân "Cái bẫy", Mỹ tập trung 12.000 quân (có 8.000 lính Mỹ), 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 đại bác đánh vào Củ Chi, hòng dồn lực lượng quân Giải phóng vào vùng Hố Bò để tiêu diệt. Với lực lượng lớn, ưu thế binh lực, hoả lực, lính Mỹ tin chắc sẽ đánh bại quân Giải phóng.

Một lính Mỹ bị sập bẫy chông của quân Giải phóng

Tuy nhiên, sau 12 ngày đêm liên tục chiến đấu (từ 8 đến 19-1), quân Mỹ không đạt được mục tiêu nào. Quân và dân Củ Chi đã đánh 200 trận lớn, nhỏ, diệt và làm bị thương gần một ngàn quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, bắn rơi 84 máy bay (phần lớn là HU-1A), phá huỷ và phá hỏng 77 xe quân sự (có 56 xe bọc thép M-113), hai pháo 105mm. Trong cuộc hành quân tìm diệt này, quân Mỹ đã san bằng gần 3.000 ngôi nhà, triệt hạ hàng ngàn hécta vườn cây, ruộng lúa, càn nát nhiều giao thông hào, đánh sập một số cửa địa đạo. Mặc dù vậy, cuộc hành quân "Cái bẫy" của Mỹ không đạt được mục tiêu đề ra là tiêu diệt cơ quan đầu não và đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Ngày 19- 1, Mỹ buộc phải kết thúc và rút các lữ đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn Anh cả đỏ xuống nam Củ Chi để lập căn cứ tại Đồng Dù. Tại đây, quân Mỹ đã giải tỏa 2.000 ngôi nhà, nhiều vườn cây, trong đó có 350 hecta cây cao su của xã Phước Vĩnh An để làm căn cứ đóng quân cho 4.500 lính Mỹ (gồm Sư đoàn bộ và Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25).

Tiếp đến, trong tháng 4 và 5-1966, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 3, Tiểu đoàn cơ giới của Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới Mỹ, lần lượt được điều đến chiến trường bắc Long An, cùng Lữ đoàn dù 173 càn quét chà xát từ Bàu Trai - Đức Lập (Hậu Nghĩa) sang Bến Lức, Vườn Thơm - Bà Vụ, tiến đánh Đức Hoà, Đức Huệ từng đợt năm, sáu ngày cho đến lúc kết thúc cuộc phản công mùa khô thứ nhất (30-5-1966). Ở đây, hàng ngàn lính Mỹ đã bị thương vong. Đặc biệt, lần đầu tiên trên chiến trường khu VIII, tại Bàu Sen, một đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 đã bị diệt hoàn toàn. Ý đồ của Mỹ chặt đứt hành lang kháng chiến từ miền Đông xuống Đồng Tháp Mười không thực hiện được.

Đầu tháng 5, Mỹ mở cuộc hành quân Birminghom đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu, với lực lượng hai lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Anh cả đỏ và Lữ đoàn dù 173. Phạm vi càn quét tương đối rộng từ Tàpang, Lò Gò, Bàu Cỏ, Sóc Ky đến suối Ông Hùng, Bến Củi. Nhưng đi đến đâu, Mỹ cũng không gặp được chủ lực đối phương, còn thường xuyên bị bộ đội tại chỗ, du kích cơ quan đánh chặn gây nhiều thương vong. Nắm vững thời cơ Mỹ phải đối phó với lực lượng tại chỗ, Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công vào cụm quân của Sư đoàn 1 Mỹ ở Bầu Sắn (Tây Ninh), đánh thiệt hại một chiến đoàn của Mỹ, bẻ gãy cuộc hành quân vào Chiến khu Dương Minh Châu.

Kết quả mùa khô 1965-1966, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 104.000 địch, trong đó có 42.000 quân Mỹ, 3.500 quân đồng minh, đánh thiệt hại 9 tiểu đoàn Mỹ, 7 tiểu đoàn quân Sài Gòn, bắn rơi, phá huỷ 1430 máy bay (hầu hết là máy bay lên thẳng), phá huỷ và phá hỏng 6.000 xe quân sự (có 300 xe tăng, xe bọc thép).

Bước vào mùa khô 1966-1967

Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967, dự tính từ tháng 10-1966 đến tháng 6-1967. Ý đồ của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần này là cố giành một thắng lợi quân sự lớn trên chiến trường, tạo một bước ngoặt, tiến tới giành những thắng lợi quyết định. Về chiến lược, lần này địch không phân tán lực lượng đánh trên nhiều hướng mà tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, đồng thời chú trọng đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế các hướng Tây Nguyên, Trị - Thiên.

Cụ thể là: ưu tiên tập trung lực lượng tiến công vào hệ thống căn cứ quân Giải phóng ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy, trọng điểm là Chiến khu Dương Minh Châu, diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực, kết hợp với việc mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Trong phản công chiến lược lần thứ hai này, cùng một lúc Mỹ thực hiện cả hai nhiệm vụ "tìm diệt" và "bình định", gọi là "chiến lược hai gọng kìm". Trong đó lớn nhất là chiến dịch Junction City (Gian-xơn Xi-ti) đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên đây, những tháng cuối năm 1966 và đầu năm 1967, Mỹ đưa thêm vào miền Nam hai Sư đoàn bộ binh số 4 và số 9, nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên 389.000 vào cuối tháng 12-1966. Mỹ còn dự kiến sẽ tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 459.000 cho năm 1967. Nhưng mới đến tháng 8-1967, tình hình quân sự, chính trị của Mỹ và Sài Gòn ở Việt Nam biến chuyển theo chiều hướng đi xuống không có lợi cho Mỹ, nên phải trù tính tăng quân Mỹ lên 542.588 vào cuối năm 1967. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung nhiều gần gấp 1,5 lần so với mùa khô lần thứ nhất. Tính đến tháng 12-1966, số máy bay đưa vào Việt Nam lên tới 3.500 chiếc và đến tháng 5-1967 tăng lên 4.300 chiếc; xe tăng, thiết giáp 2.500 chiếc, pháo 2.540 khẩu... Nếu tính cả lực lượng Mỹ ở Hạm đội 7, Thái Lan, Philippines, Guam, tham gia chiến tranh Việt Nam thì tổng số quân tham chiến lên tới 1.200.000, riêng quân Mỹ 60 vạn.Những thắng lợi cơ bản về chiến thuật của Quân Giải phóng miền Nam, cùng tình hình chiến sự - chính trị bắt đầu có lợi cho họ, các lực lượng vũ trang và cơ sở chính trị đã khôi phục. Miền Bắc tiến hành gửi quân tiếp viện bằng những đơn vị chính quy hoàn thiện vào khắp các chiến khu của Quân Giải phóng, đồng thời gửi thêm nhân lực bổ sung bù đắp thiệt hại. Gần 10 vạn người có vũ trang đã đi qua Trường Sơn, 3/4 trong số đó tiếp cận chiến trường.

Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 14-9-1966 bằng cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên: chiến dịch Attleboro (Át-tơn -bo-rơ). Không gian của cuộc hành quân từ Trảng Bàng đến Gò Dầu Hạ nằm trên đường số 1 và Trại Đèn trên đường 13 (Tây Ninh), nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực Giải phóng (Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16), hỗ trợ cho việc bình định quanh Sài Gòn. Tham gia cuộc hành quân này có lực lượng của Sư đoàn 1 Sư đoàn 25 (thiếu), Lữ đoàn 196, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ cùng chín tiểu đoàn quân Sài Gòn, chưa kể lực lượng pháo binh, thiết giáp và không quân (có cả B-52) chi viện. Tất cả khoảng 30.000 quân.

Xe thiết giáp Mỹ trong chiến dịch Cedar Falls

Mỹ mở cuộc hành quân cấp quân đoàn thứ hai, chiến dịch Cedar Falls (Xê-đa Phôn) vào vùng "tam giáp sắt" (Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát). Đây là nơi có cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Bộ Chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam tập trung một lực lượng lớn binh lực vào cuộc hành quân Cedar Falls không kém gì cuộc hành quân Attleboro, bao gồm Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ, Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 25, Lữ đoàn bộ binh nhẹ số 196 (vừa được củng cố lại sau thất bại trong cuộc hành quân Attleboro), Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ và một bộ phận Sư đoàn 5 chủ lực quân VNCH cùng một số lính đánh thuê New Zealand với hơn 400 xe tăng, xe bọc thép, 800 tàu xuồng chiến đấu trên sông, hơn 100 khẩu pháo các loại và nhiều máy bay, kể cả B-52.

Diễn biến của cuộc hành quân hoàn toàn không như quân Mỹ dự tính. Rất ít quân du kích thiệt mạng, về cơ bản các đơn vị của họ không bị đánh bật ra ngoài. Hệ thống hầm ngầm không bị triệt phá mà chỉ bị hư hại một phần. Hố bom loang lổ, hàng mảng đất bị cày xới lên bằng máy xúc. Song không có quả bom nào, không có máy xúc nào khoét đủ sâu để phá hoại hầm ngầm. Cái khó không phải hệ thống hầm ngầm đào quá sâu mà chính vì nó chạy ngoắt ngoéo không một chỗ nào là thẳng. Những cửa ngách và lỗ thông hơi thì nhiều vô kể, điều đó hạn chế khả năng bị phá huỷ. Các sĩ quan Mỹ trong cuộc càn Cedar Falls đều có chung nhận xét như vậy.

Chiến dịch Junction City

Theo tính toán của Westmoreland, Tây Ninh không chỉ là căn cứ của Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng, mà còn là nơi tích trữ vật chất, có nhiều kho dự trữ chiến lược; là địa bàn đóng quân của lực lượng chủ lực (tức Sư đoàn 9). Vì vậy tuy đã thất bại trong cuộc hành quân lớn trước đó Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn vẫn quyết định mở cuộc hành quân quy mô lớn mang tên Junction City, tập trung lực lượng đông đảo đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh).

Để thực hiện những mục tiêu trên, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa huy động đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ và một phần quân Sài Gòn. Lực lượng này bao gồm chín lữ đoàn bộ binh Mỹ (ba lữ của Sư đoàn bộ binh 1; hai lữ của Sư đoàn bộ binh 25; một lữ của Sư đoàn bộ binh số 4; một lữ của Sư đoàn bộ binh 9, Lữ đoàn 196 và Lữ đoàn dù 173), một lữ đoàn thuỷ quân lục chiến Sài Gòn. Ước tính quân số khoảng 45.000 và trên 1.000 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm khẩu pháo các loại, cùng nhiều máy bay.

Phương án tác chiến được Bộ chỉ huy Miền xác định: "Bộ đội chủ lực khi tập trung, lúc phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, phối hợp và hỗ trợ cho du kích cơ quan thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh những trận lớn, tiêu diệt được tiểu đoàn, chiến đoàn địch, bẻ gãy các mũi hành quân của chúng vào vùng căn cứ cách mạng."

Lính Mỹ thương vong trong trận đánh

Sau mấy ngày đầu của cuộc hành quân, các mũi tiến công của Mỹ đều không phát triển được, đi đến đâu cũng bị du kích, bộ đội địa phương đánh lẻ tẻ gây thương vong. Tinh thần sĩ quan, binh lính Mỹ rã rời. Hãng tin Pháp AFP ngày 22-2 đưa tin và bình luận: "Cuộc hành quân Junction City được coi là một trong những hy vọng lớn của Mỹ trong giai đoạn trước mắt, cuộc hành quân có nhiều tham vọng nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng kết quả thật đáng buồn, trong bốn ngày qua không thấy dấu vết lãnh đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng đâu cả. Đài phát thanh Mặt trận Dân tộc giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù một trong những mục tiêu của cuộc hành quân là làm cho nó câm đi...".[14]

Ngày 13-3-1967, các cánh quân Mỹ bắt đầu rút khỏi căn cứ Dương Minh Châu. Đợt một của cuộc hành quân Junction City đã bị thất bại

Từ ngày 15-3, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn triển khai giai đoạn hai cuộc hành quân Junction City, lật cánh chuyển hướng tiến công chủ yếu sang phía đông căn cứ của ta. Thủ đoạn của địch lần này là bao vây rộng, thọc sâu, tiến chắc, dùng không quân oanh tạc dữ dội, dọn sạch những chướng ngại phía đông căn cứ. Tuy nhiên kết quả vẫn không khá hơn.

Ngày 15-5-1967, Westmoreland tuyên bố cuộc hành quân Junction City chấm dứt. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: "Cuộc hành quân Junction City là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ bắc Tây Ninh lại là cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt của chúng"[15]

Với thất bại này, về cơ bản, gọng kìm "tìm và diệt" của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy. Như vậy, trong mùa khô 1966-1967, thực hiện gọng kìm tìm diệt chủ lực quân giải phóng, Mỹ chẳng những không thực hiện được ý đồ tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng lực lượng Giải phóng, mà còn bị đánh tiêu hao một phần lớn lực lượng. Tính chung trong sáu tháng mùa khô, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 lính (có 76.000 lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên, Australia, New Zealand, Philippines), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 49 tiểu đoàn và đơn vị tương đương, bắn rơi và phá huỷ 1.800 máy bay các loại, phá hỏng 1.783 xe quân sự, 340 khẩu đại bác, bắn chìm và bắn cháy 100 tàu xuồng, đánh sập và hỏng 270 cầu lớn nhỏ.

Làm thất bại gọng kìm "Bình định"

Ngay từ cuối 1966, Mỹ đã tập trung một số lớn nhân tài, vật lực cho công cuộc bình định miền Nam. Về phía chính quyền Sài Gòn, lực lượng tham gia chương trình bình định gồm: 53 tiểu đoàn chủ lực, 177 đại đội địa phương, 5 đại đội cảnh sát dã chiến, 559 trung đội nghĩa quân, 552 đoàn cán bộ bình định. Riêng tại các địa bàn trọng điểm bình định ven đô Sài Gòn, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Dương, Long An, Tây Ninh, Bình Long (thuộc Vùng chiến thuật III), Trị - Thiên, Bình Định, Tuy Hoà, Quảng Ngãi, Plâyku, Kon Tum (thuộc Vùng chiến thuật I và II), Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Kiến Phong (thuộc Vùng chiến thuật IV), ngoài lực lượng quân Sài Gòn, Mỹ huy động thêm 40 tiểu đoàn Mỹ, 1.500 chuyên gia bình định, một số đơn vị quân Nam Triều Tiên, Australia.

Tàu tuần tra Mỹ kiểm soát vùng sông ngòi nông thôn

Song song với việc tăng cường lực lượng, Mỹ đã nâng tổng ngân sách đầu tư cho công tác bình định từ 8 tỷ (tiền Sài Gòn) năm 1966, lên 14 tỷ năm 1967. Với sức mạnh được tập trung như vậy, Mỹ và chế độ Sài Gòn dự kiến đến hết năm 1967 sẽ củng cố và xây dựng được 3.500 ấp và trại tập trung, trong đó, xây dựng mới hoàn toàn là 1075 ấp, dồn được 1.315.000 dân. Đặc biệt, để phục vụ trực tiếp cho chương trình, Mỹ đã khẩn trương lựa chọn và đưa đi đào tạo đội ngũ cán bộ bình định của chính quyền Sài Gòn ở các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước.

Do mục đích chương trình bình định là phải "phá cho được cơ sở hạ tầng, thủ tiêu hết các tổ chức và con người Việt cộng", nên Mỹ đã triệt để sử dụng các nguồn tài liệu thu được từ các cơ quan tình báo quân sự và dân sự của cả Mỹ và Sài Gòn, từ khẩu cung lấy được qua thẩm vấn những người bị bắt, sau đó dùng cảnh sát đặc biệt, mật vụ điều tra thẩm định, đối chiếu với thẻ căn cước xác định. Tất cả những người bị bắt đều tập trung về các trại giam giữ và được phân ra làm ba loại: loại A là cán bộ lãnh đạo chủ chốt; loại B là đảng viên; loại C là cơ sở quần chúng cách mạng.

Kể từ lúc khởi đầu cuộc chiến tranh đến khi Mỹ mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, Khu V luôn là địa bàn "ưu tiên bình định", nên nơi đây đã trở thành một trong những điển hình của phong trào chống bình định, phá ấp chiến lược ở miền Nam. Bước vào mùa khô năm 1966 - 1967, rút kinh nghiệm trong mùa khô lần thứ nhất, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V xác định: tiếp tục đẩy mạnh phương châm "ba bám" như đã thực hiện có hiệu quả trước đây, nay bổ sung thêm phương châm "cấp trên bám cấp dưới" đã kịp thời phát hiện, nghiên cứu các thủ đoạn đánh phá của địch, tìm ra cách đối phó kịp thời cho ta theo từng địa bàn. Từ đây "bốn bám" trở thành những phương châm hành động của các cấp, các ngành, của lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương.

Song song với thành công trong chống phá bình định, nhân dân hầu khắp các địa phương miền Nam đã xây dựng được hệ thống ấp, xã chiến đấu liên hoàn, vững chắc, mà điển hình là: Trà Vinh có xã An Trường; Bà Rịa có xã Long Tân, Long Điền, Đất Đỏ; Củ Chi có xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây...; An Khê có xã Bắc, xã A1; Đắc Lắc có Khuê Ngọc Điền; Kon Tum có Đắc Uy; Quảng Ngãi có Hoà Bình; Quảng Nam - Đà Nẵng có Hoà Hải, Anh Dũng... Đây thực sự là những pháo đài vững chắc chống phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ.

Cùng với thắng lợi trên mặt trận quân sự, công tác chống phá bình định cũng thu được kết quả bước đầu rất quan trọng. Kế hoạch bình định năm 1966 của Mỹ là bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp. Nhưng đến tháng 6, quân dân Nam Bộ đã phá sạch 2.668 ấp. Khu VI phá 238 ấp trong tổng số 360 ấp, giải phóng 203.345 dân trong tổng số 744.400 dân; Khu V, Tây Nguyên và Trị - Thiên vùng giải phóng các tỉnh được mở rộng, liên hoàn với 2.125.000 dân đã giành được quyền làm chủ 233.000 dân còn trong vùng tranh chấp. Ngay những vùng Mỹ tập trung lực lượng để bình định như Long An, Củ Chi, Quảng Nam, Quảng Ngãi những làng xã chiến đấu cũng mọc lên liên hoàn. Tháng 10-1966, sau khi nghiên cứu các báo cáo về tình hình miền Nam kết hợp với chuyến đi miền Nam trước đó, McNamara báo cáo với Johnson: "Công tác bình định chỉ có đi thụt lùi"[16]

Trong mùa khô 1966-1967, riêng trên mặt trận chống phá bình định, quân Giải phóng đã giành thêm được 390 ấp, xã; nâng số xã trong vùng giải phóng lên tới 700 xã, 6.750 ấp và dinh điền. Mỹ - Việt Nam Cộng hòa chỉ thực sự kiểm soát được 5.400 ấp trên tổng số 16.293 ấp toàn miền Nam (số còn lại là ấp xã đang tranh chấp). Theo kế hoạch đặt ra năm 1967, Mỹ và Sài Gòn phải hoàn toàn kiểm soát được 3.500 ấp (có 1.076 ấp mới), nhưng thực tế chỉ lập được 291 ấp mới (mà số ấp bị phá là hơn 300), đạt khoảng 13% kế hoạch. Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận rằng: "Những cố gắng ban đầu của Chính phủ Việt Nam cộng hoà nhằm định ra các chương trình bình định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về". "Sau đó, những cố gắng của Mỹ nhằm giúp đỡ các chương trình bình định của Chính phủ Việt Nam cộng hoà lại phạm những sai lầm..." nên không tránh khỏi thất bại.[17]

Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Mỹ

Một tốp máy bay F-4 đang tiếp dầu để chuẩn bị không kích

Đánh phá miền Bắc nhằm hỗ trợ cho nỗ lực quân sự ở miền Nam Việt Nam luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Song song với quá trình đưa lục quân Mỹ vào miền Nam, Mỹ dùng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn với cường độ ngày càng dữ dội. Đây là một bộ phận khăng khít của chiến lược chiến tranh cục bộ mà Mỹ triển khai thực hiện ở Việt Nam từ năm 1965.

Từ đầu năm 1964, trước sự tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của Mỹ, Đảng Lao động đã có kế hoạch và biện pháp chuẩn bị. Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc được triệu tập đầu năm 1964 đã bàn biện pháp triển khai và tăng cường hệ thống phòng không nhân dân ba thứ quân, biện pháp thực hiện kế hoạch sơ tán, phân tán nhân dân và nhà máy, công xưởng sản xuất khỏi những vùng trọng điểm địch đánh phá.

Lực lượng vũ trang gấp rút chấn chỉnh biên chế, tổ chức và tăng cường về quân số. Các đơn vị được lệnh tổ chức báo động, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Quân chủng Phòng không - Không quân hoàn chỉnh phương án chiến đấu, triển khai lực lượng theo hướng tập trung hoả lực bảo vệ các mục tiêu chủ yếu, đồng thời hình thành lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp. Quân chủng Hải quân từ tháng 7-1964 chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tiễu vùng biển ven bờ, tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương ở vùng biển Quân khu IV. Các quân chủng, binh chủng khác cũng gấp rút hình thành phương án chiến đấu, bảo đảm giao thông trong điều kiện chiến tranh lan rộng ra cả nước. Các địa phương tập dượt huấn luyện chiến đấu, phục vụ chiến đấu sơ tán, phân tán tài sản và nhân dân...

Một đơn vị tên lửa SA-2 của Quân đội Nhân dân Việt Nam trước giờ chiến đấu

Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ phát triển nhanh chóng. Năm 1964, dân quân, tự vệ chiếm 8% so với dân số miền Bắc. Tỷ lệ đó đến cuối năm 1965 tăng lên 10%. Những năm 1966, 1967, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, đại đội pháo phòng không, được trang bị từ súng máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm đến cao xạ 37mm, 100mm. Riêng dân quân, tự vệ có 2.000 đơn vị trực chiến trên toàn miền Bắc, sẵn sàng phối hợp chiến đấu cùng bộ đội. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt để xây dựng, phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay, tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an. Ở nông thôn, dân quân, tự vệ còn là lực lượng xung kích trong sản xuất, xây dựng, đặc biệt là ở những địa bàn thường xuyên bị đánh phá ác liệt.

Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân... theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh. So với năm 1965, đến năm 1968, số trung đoàn công binh trên miền Bắc tăng gấp 1,2 lần, số tiểu đoàn công binh tăng gấp 2 lần, số đại đội công binh tăng gấp 26 lần. Bên cạnh lực lượng tập trung, các tổ đội công binh của dân quân tự vệ cũng phát triển rộng khắp, đặc biệt dọc theo các tuyến giao thông huyết mạch. Các loại phương tiện bắc cầu, bảo đảm vượt sông đến năm 1968 tăng 2,6 lần so với năm 1965. Lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng, của các quân khu tăng từ 4 đến 5 lần.

Ngày 24-7-1965, bộ đội tên lửa phòng không lần đầu tiên ra quân hiệp đồng với một số trung đoàn cao xạ, bắn hạ ba máy bay F-4 ở độ cao 7.000 m trên vùng trời Bất Bạt (tỉnh Hà Tây). Với chiến công đầu này, ngày 24-7-1965 trở thành ngày truyền thống của Binh chủng tên lửa Quân đội nhân dân Việt Nam. Chiến công ngày 24-7-1965 mở ra khả năng mới, cho phép bộ đội phòng không, với hình thức cụm tác chiến cơ động tên lửa - cao xạ, tổ chức đánh máy bay Mỹ có hiệu quả cao, bảo vệ vững chắc các khu vực mục tiêu trọng điểm.

Kết thúc năm 1965 có 834 chiếc máy bay của không quân và hải quân Mỹ đã bị lực lượng phòng không ba thứ quân bắn hạ trên vùng trời miền Bắc, trong đó, các tháng 4, 9, 10 là những tháng máy bay Mỹ bị bắn rơi nhiều nhất.

Một chiếc F-4 của Không lực Hoa Kỳ bị trúng tên lửa SA-2 khi không kích miền Bắc

Bước sang năm 1966, năm thứ hai kể từ khi cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu, để hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, không quân và hải quân Mỹ tăng cường nhịp độ, mở rộng quy mô đánh phá hệ thống giao thông miền Bắc. Máy bay ném bom chiến lược B-52 bắt đầu được sử dụng trên vùng trời miền Bắc. Hai ngày 14 và 27-4-1966, các tốp B-52 đã dội bom xuống khu vực đèo Mụ Giạ và trục đường 12 tây Quảng Bình hòng cắt đứt tuyến vận chuyển qua biên giới Việt - Lào vào tuyến vận tải chiến lược 559. Ngoài đánh cắt giao thông, không quân Mỹ còn tăng cường sục sạo tìm đánh phá các trận địa rađa, tên lửa, các khu công nghiệp miền Bắc: Nhà máy điện Uông Bí, Nhà máy điện Cao Ngạn, Mỏ than Cẩm Phả, Khu gang thép Thái Nguyên...

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara ghi nhận: "Các cuộc không kích chống lại Bắc Việt Nam tăng lên từ 25.000 vụ năm 1965 lên 79.000 vụ năm 1966 và 108.000 vụ năm 1967, và số lượng bom đạn ném xuống đây tăng từ 63.000 tấn lên 136.000 tấn, rồi 226.000 tấn". Nhưng: "việc ném bom đã không đạt được các mục tiêu cơ bản của nó: trong khi chiến dịch "sấm rền" được đẩy mạnh, tình báo Mỹ dự đoán rằng, số quân xâm nhập vào miền Nam tăng từ khoảng 35.000 trong năm 1965 lên 90.000 trong năm 1967, trong khi đó, ý chí của Hà Nội tiếp tục cuộc chiến đấu rất vững chắc"

Từ tháng 5-1966 trở đi, bên cạnh việc gia tăng cường độ đánh phá toàn bộ các mục tiêu quân sự, dân sự trên miền Bắc, Tổng thống Mỹ L. Johnxơn ra lệnh ném bom hệ thống kho nhiên liệu, nhằm làm tê liệt hoạt động của miền Bắc, buộc người Việt Nam nao núng ý chí quyết tâm đánh Mỹ.

Chiếc MiG-21PFM số hiệu 5020 đã hạ được 12 máy bay Mỹ

Sau hơn một tháng ném bom hệ thống kho dầu, cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ báo cáo là 70% khả năng xăng dầu của miền Bắc Việt Nam đã bị tiêu huỷ. Nhà cầm quyền Mỹ rất phấn khởi khi nhận được tin này. Song, mùa Hè đi qua, miền Bắc Việt Nam vẫn có đủ xăng dầu để bảo đảm mọi hoạt động bình thường và tăng cường chi viện cho miền Nam. Vì nhiên liệu nhập từ Liên Xô, Trung Quốc, quân và dân miền Bắc đã chứa vào các phuy và bể, phân tán khắp các vùng nông thôn và dọc hai bên đường số 1, trên các nẻo đường liên tỉnh hướng vào Nam. Đánh phá hệ thống kho nhiên liệu ở miền Bắc là bước leo thang quan trọng trong cuộc chiến tranh không quân của Mỹ, nhưng rõ ràng là "việc oanh tạc các kho dầu đã thất bại, v.v... Không có bằng chứng gì chứng tỏ Bắc Việt Nam đã có thời kỳ khốn đốn về dầu"

Bước sang năm 1967, năm có tầm quan trọng chiến lược, không quân Mỹ tập trung đánh vào sáu hệ thống mục tiêu trên miền Bắc: điện lực, công nghiệp, giao thông vận tải, kho dự trữ nhiên liệu, sân bay và các trận địa phòng không, các cơ sở quân sự. Tháng 2-1967, Tổng thống Mỹ Giônxơn chuẩn y đề nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, cho phép mở rộng phạm vi đánh phá trong khu vực Hà Nội, Hải Phòng; tiến hành rải mìn trên các luồng sông, cửa biển; dùng hải quân khống chế gắt gao khu vực ven biển từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20.

Một gia đình sống và chiến đấu trong Địa đạo Vịnh Mốc

Để tăng sức uy hiếp từ biển, trong năm 1967, Mỹ huy động tới tám chiếc tuần dương hạm và tàu khu trục chuyên bắn vào các mục tiêu trên bờ biển miền Bắc. Các cuộc bắn phá của hải quân Mỹ ngày càng ác liệt, nhất là khu vực từ nam sông Gianh trở vào. Có những thời kỳ cao điểm, mỗi ngày tàu Mỹ dội vào đất liền hàng nghìn quả đạn pháo. Ngoài ra, máy bay B-52 và pháo binh từ bờ nam sông Bến Hải đánh phá dữ dội khu vực Hồ Xá, Vĩnh Linh. Theo tính toán của một số tác giả Mỹ, đến cuối năm 1967, Mỹ đã ném xuống miền Bắc Việt Nam 1.630.000 tấn bom các loại, nhiều hơn khối lượng bom đạn mà Mỹ ném xuống chiến trường châu Âu trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, gấp hai lần số bom ném xuống Triều Tiên, gấp ba lần số bom ném xuống chiến trường Thái Bình Dương trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai

Theo số liệu thống kê của Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam cho biết, trong bốn năm chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ (1964-1968), 14.000 quân nhân và 60.000 dân thường miền Bắc đã bị bom đạn Mỹ giết hại. Tuy nhiên theo Mc Namara, "những thiệt hại vật chất-nhân mạng vẫn không làm nao núng quyết tâm chống Mỹ của người Việt Nam"

Kết thúc năm 1967, thêm hàng chục lần chiếc tàu chiến Mỹ đã bị pháo bờ biển của lực lượng phòng thủ biển miền Bắc bắn cháy. Nhận xét về hiệu lực đánh trả của pháo binh, một tờ báo Mỹ viết: "Trong khi đánh nhau với pháo bờ biển miền Bắc Việt Nam, các tàu chiến Mỹ đã gặp phải sự chống trả ngày càng có hiệu lực. Các tàu khu trục và tuần dương phải chạy nhanh qua vùng nguy hiểm để bắn vào mục tiêu trên bờ".

Đến cuối năm 1967, miền Bắc đã bắn rơi 2.680 máy bay hiện đại, bắn chìm, bắn cháy nhiều tàu chiến của Mỹ. Chiến công đó góp phần quyết định vào thắng lợi của mặt trận bảo đảm giao thông, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.